Các lực lượng tham gia trận đánh Trận_Okinawa

Lục quân

Nhật Bản

Sĩ quan chỉ huy của quân đoàn 32 Nhật Bản tại Okinawa, tháng 2 năm 1945

Suốt 3 năm đầu của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, quân số Nhật trên quần đảo Ryukyu chỉ có 600 người. Phải đến ngày 1 tháng 4 1944 thì quân đoàn 32 lục quân gồm ba sư đoàn 9, 24, 62 và lữ đoàn hỗn hợp 44 mới được đưa đến đây để chuẩn bị chống lại cuộc đổ bộ của người Mỹ.

Sư đoàn 9 có 25.000 quân và sư đoàn 24 được đưa từ Mãn Châu đến với 14.000 quân còn sư đoàn 62 gồm 12.000 quân đã có nhiều năm chiến đấu trên chiến trường Trung Quốc. Riêng lữ đoàn hỗn hợp 44 có 5.000 quân. Tuy nhiên đến cuối năm 1944, sư đoàn 9 đã bị điều đi Đài Loan làm cho lực lượng phòng thủ trên đảo bị giảm sút. Ngoài ra còn có 9.000 lính hải quân Nhật đóng tại căn cứ hải quân Oroku nhưng chỉ khoảng vài trăm người trong số đó được huấn luyện quân sự tác chiến trên đất liền. Trên đảo còn có một trung đoàn thiết giáp với 14 xe tăng hạng trung và 13 xe tăng hạng nhẹ.

Đặc biệt, trên đảo còn có 39.000 người bản xứ Ryukyu (bao gồm 24.000 dân vệ mới nhập ngũ gọi là Boeitai và 15.000 nhân công). Ngoài ra còn 1.500 học sinh trung học và 600 sinh viên làm nhiệm vụ chăm sóc quân lính bị thương.[6]

Chỉ huy trưởng lực lượng phòng thủ trên đảo là trung tướng Mitsuru Ushijima, tham mưu trưởng là trung tướng Cho Isamu và trưởng phòng tác chiến là đại tá Hiromichi Yahara. Chỉ huy các lực lượng phía bắc đảo là đại tá Takehido Udo. Các lực lượng lính hải quân Nhật còn lại do chuẩn đô đốc Minoru Ota chỉ huy.

Tướng Ushijima cho rằng quân Mỹ sẽ đổ bộ lên bờ biển phía tây ở bãi biển Hagushi. Tuy nhiên, ông chủ trương không đánh quân Mỹ ngay tại bờ biển mà tập trung quân ở phía nam đảo, quanh thành phố Naha, thủ phủ của đảo và các vùng phụ cận. Chế ngự giữa thành phố Naha và thành phố Shuridãy núi Shuri. Đây chính là phòng tuyến chính của quân Nhật. Những hang động, hào sâu và địa đạo nối liền các ổ kháng cự. Hai sư đoàn 24 và 62 được giao nhiệm vụ giữ phòng tuyến này. Lữ đoàn hỗn hợp số 44 đóng ở cực Nam đảo cùng với một lực lượng tương đương một sư đoàn. Ở phía bắc đảo chỉ có hai tiểu đoàn trấn giữ. Đến tháng 3 năm 1945, mọi sự bố phòng đã được chuẩn bị xong, trong tay tướng Ushijima có hơn 100.000 lính chuẩn bị sẵn sàng chờ đón cuộc đổ bộ của người Mỹ.[7]

Mỹ

Bản đồ về hoạt động quân Mỹ trong trận đánh

Lực lượng lục quân Mỹ tham gia chiến đấu là Tập đoàn quân số 10 do Trung tướng Simon Bolivar Buckner chỉ huy. Tập đoàn quân này gồm 2 quân đoàn: Quân đoàn đổ bộ III của Thiếu tướng Roy Geiger gồm 2 sư đoàn thủy quân lục chiến 1 và 6, quân đoàn XXIV của Thiếu tướng John R. Hodge gồm 2 sư đoàn bộ binh 7 và 96. Sư đoàn 2 thủy quân lục chiến là lực lượng dự phòng. Ngoài ra còn có sư đoàn bộ binh 27 làm nhiệm vụ đồn trú sau này và sư đoàn bộ binh 77. Tổng cộng Tập đoàn quân có tổng cộng 102.000 lục quân, 88.000 thủy quân lục chiến và 18.000 lính hải quân.

Đúng như dự tính của tướng Ushijima, kế hoạch của người Mỹ là sẽ đổ bộ lên bãi biển Hagushi nằm về phía tây Okinawa và do quân đoàn XXIV và quân đoàn đổ bộ 3 thực hiện. Sư đoàn thủy quân lục chiến số 2 sẽ thực hiện một cuộc tấn công nghi binh tại bãi biển Minatoga ở bờ biển phía đông nam để làm bối rối lực lượng phòng thủ về ý định tấn công chính của người Mỹ.

Hải quân

Mỹ

Tổng lực lượng hạm đội Đồng Minh tại Okinawa là 1,600 tàu bao gồm 40 hàng không mẫu hạm, 18 thiết giáp hạm, 32 tuần dương hạm và 200 khu trục hạm. Lực lượng hải quân phải nhận nhiệm vụ bắn phá dọn bãi cho cuộc đổ bộ đồng thời phải vận chuyển 183.000 quân đổ bộ và 747.000 tấn quân nhu, quân cụ, khí tài. Để vận chuyển hết số lượng người và vật chất đó, Đồng Minh đã sử dụng 430 tàu vận tải cất hàng ở nhiều nơi khắp Thái Bình Dương từ Seattle (Mỹ) hoặc từ đảo Leyte (Philippines).[8]

Hầu hết các lực lượng không quân Mỹ tham gia trận đánh gồm máy bay tiêm kích, máy bay ném bom bổ nhàomáy bay cường kích đều xuất phát từ các hàng không mẫu hạm ngoài khơi. Để chống lại hạm đội Mỹ, người Nhật đã phải sử dụng chiến thuật Thần Phong (Kamikaze) vốn đã bắt đầu từ trận hải chiến vịnh Leyte nhưng đến trận Okinawa thì đã trở thành một phần của kế hoạch phòng thủ. Từ khi quân Mỹ bắt đầu đổ bộ từ ngày Lễ Phục sinh 1 tháng 4 cho đến ngày 25 tháng 5, 7 cuộc tấn công Kamikaze bao gồm 1,500 máy bay đã được thực hiện gây rất nhiều tổn thất cho lực lượng hải quân Mỹ và Đồng Minh.

Khối Thịnh vượng chung Anh

Trong khi lực lượng lục quân Đồng Minh đa số là lính Mỹ thì hạm đội Thái Bình Dương của Anh (BPF, được xem như Lực lượng Đặc nhiệm 57 của hải quân Mỹ) đã cung cấp 1/4 sức mạnh không hải quân (450 máy bay). Hạm đội này có 50 tàu chiến với 17 trong số đó là các hàng không mẫu hạm. Để chống lại chiến thuật Kamikaze, người Anh sử dụng boong tàu bọc thép giúp cho các tàu có khả năng chịu đựng tốt hơn các cuộc tấn công nhưng bù lại phải mang ít máy bay hơn. Mặc dù toàn bộ số hàng không mẫu hạm trên đều của vương quốc Anh cung cấp nhưng nhóm các mẫu hạm này lại có sự góp mặt của tàu và nhân lực của cả Khối Thịnh vượng chung Anh: Anh, Canada, New ZealandAustralia. Nhiệm vụ của hạm đội này là khống chế các sân bay Nhật trên quần đảo Sakishima và yểm trợ về mặt không lực chống chiến thuật Kamikaze.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_Okinawa http://www.historynet.com/battle-of-okinawa-the-bl... http://www.historynet.com/magazines/world_war_2/30... http://www.jetfxtech.com/ushijima/map.html http://www.militaryhistoryonline.com/wwii/okinawa/... http://encarta.msn.com/encyclopedia_761566762/Okin... http://www.msnbc.msn.com/id/5130777/ http://www.nytimes.com/1987/06/14/magazine/the-blo... http://www.youtube.com/watch?v=GJmCCOU4rP8 http://www.youtube.com/watch?v=TxU4g4FD_3A&feature... http://www.nps.gov/archive/wapa/indepth/extcontent...